
Các chế “độ độc tài”cách mạng tồn tại “dai dẳng”(!) là tất nhiên.
Vọng Đức Phạm.
Vào những ngày đầu tháng 9 năm nay (2020) hai tác giả- Steven Levitsky và Lucan Way (SL- GS. Đại học danh tiếng Harvard (Hoa Kỳ) công bố bài viết có: “Vì sao các chế độ độc tài cách mạng (ĐTCM) tồn tại lâu đến vậy?”.
Chế độ ĐTCM được hiểu là chế độ do một Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở một số quốc gia, trong đó có Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cu Ba. Chế độ ĐTCM là một thể chế chính trị quốc gia khác với thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, trong đó chỉ có một đảng lãnh đạo, cầm quyền. Trong bài viết trên, hai ông tập đã trung giải thích nguyên nhân vì sao “các chế độ ĐTCM”lại tồn tại dai dẳng như vậy? Thiết nghĩ đây là một chủ đề có giá trị cao về khoa học và chính trị. Bởi vì, hai tác giả đã giúp cho những ai quan tâm đến việc duy trì chế độ ĐTCM có thêm lý luận và kinh nghiệm để duy trì vai trò lãnh đạo, cầm quyền của mình. Đồng thời đây cũng là những “gợi ý”cho sự chuyển hóa chế độ đó sang chế độ xã hội mới- nếu muốn.
Hai tác giả- SL viết: “Trong làn sóng Dân chủ hóa thứ ba (1989-1991) một loạt các chế độ độc tài sụp đổ, trong đó có Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Tuy nhiên, chế độ ĐTCM tại TQ, VN, Triều Tiên, Cu Ba …thì vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều thập kỷ sau đó, bất chấp việc đối mặt với áp lực bên ngoài, thành tích kinh tế lại kém cỏi…”
Trước hết, Về khái niệm chế độ “ĐTCM”theo SL- chế độ đó có những đặc trưng sau: (1) ra đời từ một cuộc đấu tranh mang tính bạo lực, ý thức hệ và từ bên dưới; (2) việc thiết lập chế độ đó gắn liền với những nỗ lực huy động đại chúng nhằm biến đổi cấu trúc nhà nước cũng như trật tự xã hội hiện hành”. Tuy nhiên SL loại trừ một số chế độ “độc tài”như Indonesia, Philippines vì “không thực thi các cải cách xã hội cấp tiến”. Ngoài hai nguyên nhân cơ bản nói trên, các chế độ độc tài cách mạng còn có các chiến lược sau:
“(1) Phá hủy các lực lượng độc lập; (2) Đảng cầm quyền gắn kết; (3) Sự kiểm soát chặt chẽ đối với lực lượng vũ trang; và (4) Bộ máy đàn áp hữu hiệu.
-Việc phá hủy các lực lượng chính trị đối lập có ý nghĩa quan trọng, vì đây là những các thiết chế giai cấp mà các lực lượng đối lập có thể sử dụng để chống lại chế độ.
-Xây dựng đảng cầm quyền mạnh để huy động sự ủng hộ của người dân đối với chế độ (đảm bảo phiếu bầu cao trong các cuộc bầu cử,..),“Giảm thiểu khả năng đảo ngũ trong giới chóp bu…”,
-Kiểm soát chặt chẽ lực lượng vũ trang; và bộ máy đàn áp hữu hiệu,…cũng là những nhân tố quan trọng để duy trì chế độ ĐTCM.
SL cho rằng: Sau sau khi trở thành đảng cầm quyền, nhân dân nhìn nhận Đảng cách mạng bằng tấm gương “đạo đức”hơn là vai trò chính trị. Cho nên việc xây dựng Đảng về đạo đức có ý nghĩa rất quan trọng. SL viết: “Cuộc đấu tranh giải phóng (dân tộc) thành công thường tạo ra một thế hệ nhà lãnh đạo có tính chính danh phi thường cùng quyền lực gần như tuyệt đối”. Nhưng họ không thể cầm quyền mãi, bởi vậy xây dựng một thế hệ tiếp theo với những tiêu chuẩn mới và đạo đức có ý nghĩa quyết định để duy trì chế độ ĐTCM.
Theo SL, để duy trì chế độ ĐTCM cần nhiều yếu tố: Một là phải có “cơ chế chuyển giao quyền lực”; Hai là phải “phát triển kinh tế”… Vì sự qua đi của thời kỳ cách mạng, thành tích kinh tế trở nên một chỉ dấu quan trọng đối với các chế độ.
Về khách quan, sự bền vững của chế độ ĐTCM còn ở chính sách bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, nhất là trong bối cảnh chính trị quốc tế ngày nay. Chính sách và chiến lược ứng phó đối với Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng bảo đảm uy tín của chế độ ĐTCM.
Cuối cùng, theo SL các chế độ này chỉ có thể thay đổi, chuyển hóa bằng chính nhận thức và chính sách của họ. Chiến lược- “tiếp cận cứng rắn mang tính đối đầu – chỉ làm sâu sắc thêm sự gắn kết Đảng với nhân dân làm cho các chế độ ĐTCM thêm sức sống và sự dẻo dai”. Có thể nói, bài viết của SL có giá trị khoa học cao, bởi vì SL đã đứng trên lập trường khách quan để phân tích, lý giải, tổng kết.
Tiếc rằng SL đã không nhận thức được một chân lý:
“Phàm cái gì hợp lý, cái đó (là) hiện thực;
Phàm cái gì hiện thực, cái đó (là) hợp lý”
(G.W.F.Hegel).
Chế độ ĐTCM, trong đó có Việt Nam là một thực tế “hiện thực”hợp lý. Đáng tiếc, khi viết bài này hai ông đã không nhận thấy những cải cách dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường cùng với nhà nước pháp quyền ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam mà hai ông không đề cập đến. Cuộc sống còn chỉ ra rằng: Chế độ ĐTCM nếu muốn tồn tại lâu dài thì cần phải được tiếp thêm sức mạnh của chế độ dân chủ với nhà nước pháp quyền của đảng chính trị vì dân, do dân lãnh đạo./.